Kênh Vĩnh Tế: khi dòng nước và dòng người viết nên lịch sử
KÊNH VĨNH TẾ
Bạn có bao giờ tự hỏi, liệu thật sự đào một con kênh có dễ dàng như trong kế hoạch? Có thể là không, ít nhất là đối với kênh đào Vĩnh Tế, vì quá trình xây dựng ban đầu của công trình thế kỉ này cứ nằm im trên bản vẽ gần mấy năm trời mà “bướng bỉnh” chẳng chịu "xuống đất". Có lẽ điều này thực đúng với câu "Ước mơ thì dễ, thực hiện mới khó!", nhưng đừng nản lòng, bởi những công trình vĩ đại luôn cần thời gian và kiên nhẫn để trở thành hiện thực.
Năm 1816, sau khi thành Châu Đốc được đắp xong, Trấn thủ Lưu Phước Tường tâu lên, vua Gia Long nhìn vào tấm bản đồ, có lẽ đã thầm nghĩ ra một ý tưởng tuyệt vời về một con đường có thể nối liền hai bờ ngăn cách. Với con mắt nhìn xa trông rộng, nhà vua phán: "Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên, thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy"
Nhưng rồi, giống như những dự án to lớn khác trong lịch sử, khi lý tưởng va phải thực tế thì thường họ làm được ngay. Vua Gia Long sau đó lưỡng lự, người không muốn bắt dân thêm phần cực nhọc, lòng dân sẽ không yên nên đành trì hoãn. Ba năm trôi qua, dự án "con kênh trong mơ" vẫn nằm im trên giấy, như những quyết tâm đầu năm của chúng ta nhiệt huyết thế nào nhưng đến cuối năm vẫn chưa hoàn thành.
Giai đoạn một xây kênh Vĩnh Tế: "đổ mồ hôi sông, đổ nước mắt suối"
Mãi đến tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), có lẽ sau khi uống một chén trà đạo đắng và suy ngẫm về sự phát triển của đất nước đã tốt hơn ba năm trước, vua Gia Long mới quyết định khởi công con kênh. Ngày 15 tháng Chạp năm ấy, tiếng cuốc đầu tiên vang lên, cùng tiếng lòng hăng hái của 5.000 nhân công, 500 người từ quân đội Uy Viễn Đồn và thêm một số lực lượng khác, tổng cộng khoảng 10.500 người. Huy động được số người trên không phải là dễ, rồi quản lí họ như thế nào để hoàn thành mục tiêu chung cũng không phải là không có trở ngại gì.
Đợt đầu tiên, kênh được khai phá như thể người ta đang cố gắng xẻ một khúc gỗ lim bằng dao gọt hoa quả. Đất cứng như đá, công cụ thì thô sơ đến mức một nhát cuốc chỉ lấy được một ít đất bằng bàn tay. Không có máy móc, không có công nghệ, chỉ có sức người và những chiếc cuốc, xẻng cùn mòn theo thời gian.
Sự ra đời của Kênh Vĩnh Tế


Rừng thiên nhiên rậm rạp, đầy rẫy thú dữ ẩn nấp. Có những ngày, tiếng gầm của hổ báo vọng về từ xa khiến toàn bộ nhân công run rẩy. Đêm xuống, không có đèn điện, chỉ có ánh lửa trại leo lét không đủ xua tan bóng tối và nỗi sợ hãi.
Muỗi mòng thì nhiều vô số kể, cắn người đến sưng vù. Nhiều người bị sốt rét, run cầm cập mà vẫn cố gắng làm việc. Thuốc men không đến mức quá thiếu thốn, nhưng vẫn là không đủ đối với tình hình hàng ngàn người cùng lao động để khai hoang thời ấy.
Những vị thuốc quý hiếm được các cụ già cất giữ cẩn thận, dùng chung cho cả đoàn. Khi có người ngã bệnh, các bậc cao niên sẽ băng mình vào rừng tìm kiếm các loại lá cây, rễ cây có thể chữa bệnh. Đôi bàn tay run rẩy nhưng đầy kinh nghiệm của họ đã cứu sống biết bao mạng người. Họ truyền lại kinh nghiệm cho những người trẻ: "Lá này chữa sốt, rễ kia trị đau bụng," tạo nên một chuỗi tri thức dân gian quý báu được lưu truyền qua những tháng ngày đó.
Trong những lúc gian khổ của buổi đầu xây kênh, người ta chia sẻ cho nhau từng nắm gạo, từng miếng khoai. Những người biết cách bẫy thú, câu cá thường chia thành quả cùng với cả nhóm. Có lúc bắt được một con cá lóc hay một con chuột đồng, niềm vui đó không phải của riêng ai mà là của cả tập thể. Những bữa ăn đạm bạc nhưng đầy tình người ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho họ vượt qua nghịch cảnh.
Dưới cái nắng gay gắt, nhiều người đã ngất xỉu vì kiệt sức. Tuy nhiên, luôn có những bàn tay đỡ lấy giúp họ, luôn có những giọng nói thì thầm: "Cố lên, về quê rồi kể chuyện kì tích này cho con cháu nghe, chúng sẽ tự hào lắm đấy." Những người trẻ khỏe thường đứng chắn nắng cho người già yếu hơn. Họ thay phiên nhau làm việc ở những vị trí khó nhất, không để ai phải gánh chịu quá lâu.
Nhiều người ngã bệnh, không ít người đã bỏ mạng. Những nấm mồ đơn sơ mọc lên dọc theo tuyến kênh đang đào, như những chứng nhân thầm lặng cho sự hy sinh. Có những đêm, tiếng khóc than vang vọng khắp trại, khi một đồng đội, một người thân nữa ra đi mãi mãi.
Nhưng những người tham gia vào công trình ấy, đều ý thức được rằng nếu công trình này xây xong sẽ đem lại rất nhiều lợi ích về kinh tế và giao thương cho thế hệ nay và mãi về sau, nên họ luôn đem lòng quyết tâm lớn nhất để cống hiến. Những lời hứa được thốt lên bên mộ người đã khuất: "Chúng tôi sẽ hoàn thành con kênh này, để anh ra đi thanh thản." Rồi sáng hôm sau, họ lại cầm cuốc, xẻng lên, làm việc với ý chí mãnh liệt hơn, như thể mang theo cả phần của những người đã không còn. Nhiều người khắc tên người bạn đã khuất lên cán cuốc, như một cách để người đã mất vẫn tiếp tục đồng hành cùng họ.
Ba tháng vất vả, mọi người chỉ đào được khoảng 20km. Tiến độ khá là chậm, không phải vì họ lười biếng, mà vì điều kiện quá khắc nghiệt, trong khi sức người có hạn.
Do đó, công trình lớn lao này phải ngưng một thời gian để tìm phương pháp khác hữu hiệu hơn để thực hiện. Thế là ba năm trôi qua, không một nhát cuốc mới được thả xuống đất .
Đến năm 1823, vua Minh Mạng sau khi đã ổn định triều chính, quyết định đẩy nhanh công trình. Tuân theo chỉ dụ của vua, Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt huy động hơn 39.000 binh dân từ thành Gia Định và các trấn Vĩnh Thanh, Định Tường, đồn Uy Viễn, cùng với hơn 16.000 binh dân Chân Lạp. Mỗi tháng, họ đều được cấp phát tiền gạo đầy đủ theo lệ từ triều Gia Long, đảm bảo sự chu cấp ổn định cho quân đội và dân binh.
Chính vị Tổng trấn tài giỏi này đã nhìn thấy kênh Vĩnh Tế tương lai sẽ giúp thoát nước, tiêu úng, thay chua rửa phèn cho đồng ruộng, đồng thời cũng có rất nhiều lợi ích kinh tế đối với người dân. Không chỉ là người chỉ huy giai đoạn hai cho quá trình trên, thời gian ông nhậm chức ở Gia Định cũng đã chăm lo nhiều mặt cho đời sống nhân dân, hạn chế nạn cướp bóc và hơn hết là biến vùng đất còn hoang sơ này trở nên trù phú và an yên hơn bao giờ hết.
Giai đoạn hai xây kênh Vĩnh Tế: Đối mặt với hạn hán khắc nghiệt
Những tưởng đâu đợt hai này với quy mô đồ sộ hơn về con người sẽ có thể hoàn thành dự án nhanh chóng. Nhưng không ngờ, lại có những khó khăn mới bất ngờ ập đến. Vì số lượng người đông, việc quản lý lại trở nên phức tạp. Trước tình cảnh này, những người lãnh đạo nhóm nhỏ - thường là những người có uy tín, đã trải qua nhiều gian khổ - tập hợp anh em lại. Họ kể những câu chuyện về vùng đất quê hương, về mùa màng bội thu khi ruộng đồng được tưới tiêu, về thuyền bè tấp nập chở hàng hóa, về cuộc sống no đủ sau khi con kênh hoàn thành. Những câu chuyện ấy như ngọn lửa sưởi ấm trái tim mỗi người trong những đêm lạnh lẽo xa nhà, thắp lên cho họ một niềm tin về con kênh lịch sử và họ rất có thể từ những người vô danh sẽ được lưu danh thanh sử.


Chỉ tiếc rằng lúc này đây, trời vẫn đang cố tình thử thách lòng người, đợt hai này, nắng hạn bất ngờ bủa vây khiến kênh Vĩnh Tế đang xây gặp trở ngại lớn. Đất nứt nẻ, cứng như đá, thật là khó đào hơn gấp bội. Những vết nứt sâu hoắm xuất hiện khắp nơi, như thể mặt đất đang há miệng cười nhạo nỗ lực của con người.
Nhiệt độ ban ngày tăng cao đến mức không thể làm việc. Da người bỏng rát dưới ánh mặt trời thiêu đốt. Nhiều người bị say nắng, ngất xỉu hàng loạt. Có những buổi sáng, khi đội trưởng hô "Tập hợp!", chỉ có một nửa số người đứng dậy nổi, nửa còn lại nằm bất động trong lều, kiệt sức vì mất nước.
Nước uống trở nên khan hiếm. Những con suối nhỏ, vốn là nguồn cung cấp nước ngọt cho đoàn người, dần cạn kiệt. Người ta phải đi xa hơn, sâu hơn vào rừng để tìm kiếm nguồn nước. Những người già, yếu thường xuyên bị choáng váng vì thiếu nước, nhiều người bị co giật, thậm chí tử vong.
Trước tình cảnh này, những người lãnh đạo đã nhanh chóng tìm ra giải pháp. Họ tổ chức những đội đi tìm nước, thường là những người trẻ khỏe nhất trong đoàn. Mỗi ngày, những đội này phải đi xa cả chục cây số, mang theo những chiếc bình đất to lớn. Họ vận chuyển nước về trại, ưu tiên cho người già, trẻ em và người đau yếu.
Người ta bắt đầu đào những giếng tạm dọc theo tuyến kênh. Ban đầu, công việc này cũng gặp nhiều vất vả vì đất quá cứng, nước ngầm lại nằm rất sâu. Nhưng với quyết tâm sống còn, họ đã đào những giếng sâu hàng chục mét, có giếng phải đào tới hơn hai mươi mét mới chạm tới mạch nước ngầm.
Những người có kinh nghiệm bắt đầu dạy nhau cách tìm nước bằng dấu hiệu của thực vật. Họ quan sát những cây cỏ nào vẫn xanh tốt giữa mùa khô hạn, đào xuống phía dưới thường sẽ tìm thấy nước. Người lớn tuổi hướng dẫn cách nhận biết nơi có mạch nước ngầm thông qua màu sắc của đất, qua âm thanh khi gõ xuống mặt đất.
Để tiết kiệm nước, họ thay đổi hoàn toàn cách sinh hoạt. Nước rửa mặt buổi sáng được tận dụng để rửa chân tay buổi tối. Nước vo gạo được giữ lại tưới cho những cây rau nhỏ họ trồng quanh lều để cải thiện bữa ăn. Những hạt sương đọng trên lá cây buổi sáng sớm được gom lại bằng những mảnh vải, vắt ra từng giọt quý giá.
Họ làm việc vào đêm và sáng sớm, khi nhiệt độ dịu hơn. Ban ngày, khi mặt trời lên cao, họ nghỉ ngơi trong những chiếc lều được che phủ bằng lá cây rừng để tránh nóng. Đêm xuống, ánh trăng trở thành người bạn đồng hành, soi sáng cho những nhát cuốc, những mũi xẻng cần mẫn xới tung lớp đất cứng.
Trong những đêm trăng sáng, người ta còn tổ chức những buổi lễ cầu mưa. Các bô lão, thầy cúng trong đoàn dẫn dắt những nghi lễ cổ xưa. Họ dựng những bàn thờ đơn sơ, thắp hương khấn vái thần linh. Tiếng trống, tiếng mõ vang vọng trong đêm tĩnh mịch, như những lời cầu khẩn thiết tha gửi đến trời cao.
Trong những khoảnh khắc tưởng chừng như tuyệt vọng nhất, tinh thần đồng đội lại càng được phát huy rõ rệt. Họ thì thầm những lời động viên: "Cố lên, còn sống là còn hy vọng. Mai này kênh đào xong, con cháu mình sẽ được hưởng thành quả." Nhiều người đã viết thư nhờ bạn mình gửi về cho gia đình, dặn dò vợ con những điều cần thiết, như thể họ biết mình có thể không trở về. Và những lá thư ấy, đôi khi chỉ là mảnh vải với những dòng chữ nguệch ngoạc bằng than, đã được gìn giữ, chuyển đi như những món quà quý giá nhất.
Và thế đó, giữa hoàn cảnh ấy, những người thợ đào kênh vẫn tìm thấy niềm vui trong những điều giản dị. Lần này việc tạo kênh dẫn nước đã tiến triển rất tốt, bất chấp hạn hán. Nhưng rồi có lẽ vì muốn khoan thư sức dân, mọi người cần nghỉ ngơi qua mùa nắng hạn trước khi tăng tốc hoàn thành, nên Đến tháng 4 (âm lịch) năm 1823, vua Minh Mạng lại cho thôi đào kinh Vĩnh Tế - "nhơn đến mùa hạ, mà việc đào sông chỉ còn hơn 1.700 trượng"[12].
Giai đoạn ba xây kênh Vĩnh Tế: đi đến hoàn thành công trình lịch sử
Sang đến đợt ba vào năm 1824, chỉ còn đoạn cuối ngắn ngủi 4.352m. Lúc này, 25.000 người được huy động và làm việc bất kể ngày đêm. Lần này chắc chắn hoàn thành, nên mọi người thường nói với nhau: "Cố thêm chút nữa thôi, gần đến đích rồi!" Những câu nói đơn giản nhưng chứa đựng sức mạnh phi thường ấy, như những dòng suối mát lành giữa sa mạc khô cằn, khiến cho niềm tin dâng trào mãnh liệt và mọi người bắt đầu mơ tưởng về một con kênh giàu nước và phù sa, nối liền hai bờ đất, đem đến sự trù phú và yên bình mãi mãi về sau.
Cuối cùng, ngày mùng một tháng 5 năm 1824, con kênh hoàn thành với chiều dài khoảng 87km. Chắc hẳn tiếng reo mừng vì công trình thắng lợi này đã làm kinh động cả vùng Tây Nam.


Kênh Vĩnh Tế, sau khi hoàn thành, đã trở thành huyết mạch giao thương và phòng thủ quan trọng đối với đất nước. Về thành tích vượt bậc này, Vua Minh Mạng đã nhận xét: "Thực là quan yếu cho quốc kế biên trù." (Nếu dịch theo ngôn ngữ hiện đại, có lẽ sẽ là: "Đây là siêu dự án chiến lược kinh tế và biên giới quốc gia!"
Sau này, Kênh Vĩnh Tế đã mang lại những lợi ích thiết thực cho đời sống người dân và sự phát triển của vùng đất. Đúng như tầm nhìn của vua Gia Long, con kênh đã trở thành địa điểm giao thương trọng yếu nối liền Châu Đốc với Hà Tiên, thúc đẩy lưu thông hàng hóa và phát triển nông thương hai bờ.
Song song đó, hệ thống thủy lợi từ kênh đào không chỉ cung cấp nguồn nước tưới tiêu dồi dào cho đồng ruộng, mở rộng diện tích canh tác, tăng năng suất nông nghiệp mà còn giúp điều tiết nước, giảm thiểu tác động của lũ lụt và hạn hán. Nhờ những lợi thế này, nhiều vùng đất mới được khai phá, thu hút người dân đến sinh sống, hình thành các làng mạc đông đúc và phát triển dân số vô cùng rực rỡ.
Ngoài ra, công trình còn tạo ra nhiều công ăn việc làm mới liên quan đến vận tải đường thủy, thương mại dịch vụ, đồng thời thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các vùng miền, làm phong phú đời sống tinh thần của người dân nước ta. Hơn hai thế kỷ trôi qua, kênh Vĩnh Tế không chỉ là công trình thủy lợi trọng điểm mà còn là di sản lịch sử, minh chứng cho khả năng chinh phục thiên nhiên và sức mạnh đoàn kết của người Việt Nam, trở thành niềm tự hào được truyền từ đời này sang đời khác. Những lợi ích to lớn này đã chứng minh tầm nhìn chiến lược của các vị vua nhà Nguyễn và sự đóng góp của rất nhiều người tham gia xây dựng công trình thế kỷ này là hoàn toàn xứng đáng.
Đến tận ngày nay dòng kênh vẫn chảy. Kênh Vĩnh Tế đã chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, từ thời Pháp thuộc, kháng chiến, đến thống nhất đất nước và phát triển hiện đại. Dòng nước ấy đã phản chiếu bao gương mặt, từ nông dân cần cù đến thương nhân tài giỏi, từ chiến sĩ gan dạ đến học trò tài năng giúp dân giúp nước.
Thời đại mới song song đó lại có những thách thức mới. Những dòng kênh, dòng sông hiền hòa từ ngàn xưa giờ đây đang phải đối mặt với một vấn nạn: ô nhiễm môi trường. Những dòng nước từng trong xanh giờ đây đang dần bị xâm lấn bởi rác thải và hóa chất.
Người xưa đã đổ bao mồ hôi để nối liền các vùng đất xa xôi, nhưng thế hệ sau lại vô tình tạo ra khoảng cách giữa con người và trời đất. Có phải chăng các thế hệ trước dùng tay không, cuốc thuổng để đào kênh; còn lớp con cháu lại dùng hóa chất tẩy rửa, túi nilon, chai nhựa để... lấp sông?
Để giải quyết vấn đề này, những giải pháp tự nhiên như dung dịch chiết xuất từ cà chua, sả chanh hay các nguyên liệu thiên nhiên khác đang là xu hướng có thể thay thế nhiều loại hóa chất tẩy rửa mạnh. Chúng không chỉ an toàn cho sức khỏe con người mà còn thân thiện với môi trường, và cũng không gây hại cho những dòng nước trong trẻo và thiện lành nơi ông cha ta đã dày công tạo dựng và bảo vệ.
Một gia đình nhỏ có thể tạo ra sự khác biệt lớn. Cũng như việc đào kênh năm xưa, khi mỗi người đều góp sức đào một nhát cuốc, thì cuối cùng, một con kênh vĩ đại đã thành hình. Tương tự, nếu mỗi gia đình đều góp phần nhỏ bé của mình trong việc bảo vệ môi trường, thì những dòng sông, kênh rạch đó sẽ mãi mãi lưu chuyển dòng nước vừa thơm vừa sạch đi đến muôn nhà.
Tổ tiên ta xưa kia đã vượt qua bao khó khăn trùng trùng để đào những con kênh khơi thông dòng nước, hy vọng chúng ta hôm nay cũng có thể giữ gìn và bảo vệ những thành quả ấy. Bởi vì, đôi khi, việc bảo vệ một thứ gì đó còn khó khăn hơn nhiều so với việc tạo ra chúng.
Cũng như dòng nước mát vô tận, lịch sử không bao giờ ngừng chảy. Nhưng hướng chảy của nó sẽ do chúng ta - những người đang sống hôm nay - quyết định. Vậy nên, hãy để mỗi giọt nước chúng ta sử dụng đều góp phần làm cho ngày mai tươi sáng hơn. Bởi vì, xét cho cùng, "đào kênh" hay "giữ sông" cũng đều là những cách chúng ta thể hiện lòng kính trọng với tổ tiên, với thiên nhiên và trách nhiệm với con cháu.
Và nếu một ngày nào đó, nếu bạn có dịp đứng bên bờ một dòng sông, dòng kênh, hãy lắng nghe thật kỹ. Biết đâu, trong tiếng nước chảy róc rách, bạn sẽ nghe được tiếng thì thầm của lịch sử, và cả những tiếng gọi tha thiết của tương lai.
Nguồn tham khảo: Kênh Vĩnh Tế – Kỳ công lịch sử nơi biên viễn | Cổng thông tin điện tử tỉnh An Giang








Khuyến cáo: mọi người nên tìm hiểu kỹ thêm về sản phẩm trước khi đặt mua nhé. Bên mình đã cố gắng chọn lọc các sản phẩm chất lượng nhưng cũng không thể đảm bảo được hết và cũng tùy thuộc nhà sản xuất nữa, mong mọi người thông cảm. Nếu chưa tin tưởng thì cũng đừng quyết định mua quá sớm nhé!
Comments