Đại Thắng Quân Nguyên Mông Lần 3 - Trận đóng cọc Bạch Đằng phần 2
TRẬN BẠCH ĐẰNG PHẦN 2
Mời bạn đọc phần 1 trước khi đọc phần 2 này nhé: Mưu lược trận Bạch Đằng giữa Ô Mã Nhi và Trần Hưng Đạo
(phần đầu đã bàn xong mưu lược của các bên tham chiến trước trận tiền, phần này miêu tả về diễn biến từ lúc quân đội nhà Trần ta bắt đầu cắm cọc trên sông đến hết cuộc chiến)
DOANH TRẠI CỦA Ô MÃ NHI
Tại trại quân Mông Cổ, Ô Mã Nhi đang xem xét các thuyền chiến. Ông ta nhìn những con thuyền lớn với vẻ tự hào. Mỗi chiếc đều được trang bị vũ khí tối tân nhất thời bấy giờ: nỏ, cung tên, giáo mác và thậm chí cả những khẩu pháo nhỏ - vũ khí mà quân Mông Cổ đã học được từ người Trung Hoa.
"Tướng Quân," một binh sĩ chạy đến báo cáo, "quân do thám báo về thấy thuyền của quân Trần đang tuần tra ở cửa sông Bạch Đằng."
“Do thám không bị phát hiện chứ?” Ô Mã Nhi dè chừng.
“Bẩm tướng quân, chưa bị.” Tên lính trả lời.
"Chỉ tuần tra thôi à?" Ô Mã Nhi hỏi lại.
"Vâng, dường như chúng chỉ quan sát, không có động thái gì khác."
Ô Mã Nhi mỉm cười đắc thắng: "Thấy chưa, Phàn Tiếp? Quân Trần đang dè chừng chúng ta. Chúng không dám tấn công."
Phàn Tiếp vẫn giữ vẻ mặt lo lắng: "Nhưng sao chúng lại để lộ sự hiện diện của mình như vậy? Nếu là phục kích, chẳng phải chúng nên ẩn mình sao?"
"Vậy xem ra khúc sông Bạch Đằng này không có phục kích rồi. Vậy cũng tốt, ta vẫn luôn mong có thể đánh với chúng trực diện một lần"
"Tướng quân có chắc không, chúng ta đã rất nhiều lần mắc mưu họ, biết đâu nhìn vậy mà không phải vậy?" Phàn Tiếp vẫn thận trọng.
CỌC GỖ BÁCH CHIẾN phần 2: Sức mạnh của toàn dân


"Nghe này," Ô Mã Nhi trở nên nghiêm túc, "quân Trần nếu không xuất hiện tại đây ta còn nghi ngờ sông này có phục kích, giờ thì rõ rồi. Chúng không thể dùng những trò lừa bịp tâm lý thêm lần nào nữa. Ta đã chinh chiến khắp nơi, từ sa mạc Gobi cho đến Trung Nguyên. Ta biết rõ các chiến thuật này."
Ô Mã Nhi không biết rằng, ở bên kia màn trướng, có một người hiểu rõ tâm lý ông ta đến rõ mồn một.
RỪNG CỌC DƯỚI LÒNG SÔNG
Đêm xuống trên sông Bạch Đằng. Dưới ánh trăng mờ ảo, hàng nghìn người dân Đại Việt đang âm thầm làm việc. Họ kéo những khúc gỗ lim, gỗ táu từ rừng ra bờ sông. Những khúc gỗ này được đẽo nhọn một đầu, rồi cắm xuống lòng sông thành từng hàng dài.
Trần Hưng Đạo đích thân chỉ đạo công việc. Ông đi dọc theo bờ sông, đôi mắt sắc sảo quan sát từng chi tiết nhỏ.
"Cắm sâu hơn nữa," ông ra lệnh. "Khi nước triều lên, chúng phải được che khuất hoàn toàn."
Một người dân già cúi đầu thưa: "Thưa Hưng Đạo Vương, chúng tôi đã cắm sâu đến nửa thân người rồi."
"Tốt," Trần Hưng Đạo gật đầu. "Nhưng hãy nhớ, mỗi cọc gỗ này không chỉ là một cái cọc đơn thuần. Nó là cánh tay của tổ tiên ta vươn lên từ lòng đất, từ lòng sông để bảo vệ mỗi người dân của đất nước. Mỗi cọc gỗ phải vừa nghiên đủ vừa cứng cáp như ý chí của người Đại Việt."
Người dân già cảm động trước lời nói của vị tướng quân đáng kính, ông cúi đầu sâu hơn: "Chúng tôi hiểu, thưa tướng quân."


Không xa đó, tướng Nguyễn Khoái – người sẽ chỉ huy đội quân Thánh Dực, đang huấn luyện binh sĩ về cách chiến đấu trong điều kiện đặc biệt của trận đánh sắp tới.
"Tướng quân, Khi nào thì rút lui?" một binh sĩ trẻ hỏi.
"Khi ta ra hiệu lệnh," Nguyễn Khoái đáp. "Nhưng nhớ cho kỹ: đây không phải là rút lui thật sự. Các ngươi đang dụ địch vào trong trận địa. Phải giả thua tài tình làm sao để quân Nguyên nghĩ rằng chúng đang thắng, để chúng đuổi theo càng hăng càng tốt."
"Nhưng nếu chúng không mắc lừa thì thế nào?"
"Chúng sẽ mắc lừa" Nguyễn Khoái tự tin. "Lòng tham chiến thắng sẽ khiến chúng mù quáng. Chỉ cần thắng một trận gần sát ngày về thế này, có thể gỡ hết tất cả trận thua từ trước đến nay. Ô Mã Nhi cũng như ai hết, muốn lập công đầu trên những kẻ chỉ huy khác đã từng chiến bại. Hơn nữa, họ tiến sâu vào đánh được lần này rồi sẽ rút lui nhanh lẹ về Trung Nguyên, hầu như không có rủi ro."
Binh sĩ trẻ gật đầu, bỗng nhiên ngộ ra.
“Cốt yếu làm sao để họ thấy rằng tiến lên chỉ có thắng, thất bại cũng còn đường rút, thì họ sẽ không từ bỏ mối lợi này” - Nguyễn Khoái thổ lộ.
Tại một góc khác của bờ sông, một nhóm binh sĩ đang bàn luận về kế hoạch.
"Nghe nói Ô Mã Nhi là một trong những tướng giỏi nhất của quân Nguyên," một người nói, giọng lo lắng.
"Đúng vậy," người bên cạnh đáp. "Nhưng Hưng Đạo Vương của chúng ta đã đánh bại Toa Đô, Thoát Hoan trong những trận chiến trước đó. Lần này cũng không ngoại lệ."
"Nhưng quân số của ta..."
"Quân số của ta có bao giờ bằng quân địch đâu, nhưng quân Nguyên Mông đánh mấy lần rồi có bao giờ chiến thắng ta đâu!" một giọng trầm trầm cất lên trấn an mọi người.
Tại một nơi trong bóng tối, Hưng Đạo Vương nhìn xa xăm về phía dòng sông đang chảy êm đềm trong đêm tối, ông nhớ về lý do ông đã chọn sông Bạch Đằng, chọn bài học xưa để chuẩn bị quyết trận tử chiến.
"Đây là nơi mà 350 năm trước, Ngô Quyền đã đánh bại quân Nam Hán bằng chính kế sách đóng cọc này. Lịch sử là tấm gương soi, và ta muốn quân Nguyên nhìn vào đó để thấy tương lai của chúng." - Vị tướng trầm ngâm trong tĩnh lặng, nhưng quyết tâm cuồn cuộn như mạch sóng ngầm dâng trào trong tim.
MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐỊNH MỆNH
Ngày 8 tháng 3 năm Mậu Tý (9 tháng 4 năm 1288). Bình minh vừa ló dạng trên sông Bạch Đằng. Sương mù còn phủ mờ mặt nước, tạo nên một bức màn sương vô cùng huyền ảo.
Trên thuyền chỉ huy của quân Nguyên, Ô Mã Nhi đứng nhìn về phía trước, nơi dòng sông uốn lượn trải dài ra đến tận chân trời.
"Thuỷ triều đang lên," viên hoa tiêu báo cáo. "Thời điểm lý tưởng để xuất phát, thưa tướng quân."
Ô Mã Nhi gật đầu, vẻ mặt kiên quyết: "Truyền lệnh, toàn bộ đoàn thuyền khởi hành."
Đoàn thuyền Nguyên bắt đầu di chuyển, lướt đi trên sông Bạch Đằng. Phía trước, trong màn sương mù dần tan, họ bắt đầu thấy những chiếc thuyền nhỏ của quân Đại Việt đang di chuyển.
Thuyền nhỏ của quân ta lần này chạy ra nghênh địch khá hỗn loạn, nên bị các chiến thuyền của quân Nguyên “hù dọa” là rút trở về. Cứ như vậy đến vài ba lượt, khiến nhiều thuyền nhỏ quân ta bị vỡ, hoặc người bị rơi xuống nước hết để lại nhiều chiếc thuyền không.
"Các người xem" Ô Mã Nhi chỉ tay. "Quân Đại Việt đang chạy trốn!"
Đến lúc này, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ đều đồng loạt ngăn cản Ô Mã Nhi.
"Tướng quân, cần phải đi ngay, nếu chậm trễ nữa sẽ lỡ thời cơ nước đang dâng" Phàn Tiếp hối thúc.
“Đúng vậy tướng quân, đây không phải là lúc để đôi co với họ” Tích Lệ Cơ tiếp lời.
Ô Mã Nhi nhìn họ, ánh mắt quả quyết: “Đã không thể ở Thăng Long, nếu chúng ta cứ vậy mà về, trong mắt Đại Hãn là thua hay thắng? Liệu người trong nước sẽ không buông lời gièm pha?
Tướng quân nhìn ra xa xăm: “Đại Hãn sẽ không vui với kết quả này, hậu quả thế nào các ngươi đều biết, nhưng chỉ cần thắng trận nhỏ này, một trận nhỏ thôi trước lúc hồi kinh, sẽ giúp chúng ta xoay chuyển tình thế, thậm chí thăng quan tiến chức”
Ô Mã Nhi chỉ tay về các thuyền của Đại Việt đang rút lui, đội hình xiêu vẹo mà nói: “Hai người nhìn đi, Đại Việt đã rút hoảng loạn đến mức độ này khi thấy thuyền chiến chúng ta đi qua, nhiều người còn rớt xuống nước chưa kịp kéo lên.”
Ông quay sang nhìn hai người họ: “Quay về với một chiến thắng huy hoàng hay rút lui một cách nhục nhã, là được khen thưởng hay bị định tội? Tiền đồ phía trước, các người tự chọn đi!”
Hai người im lặng không nói nên lời.


"Tiến lên!" Ô Mã Nhi ra lệnh. "Đuổi theo chúng! Không để tên nào thoát!"
Đoàn thuyền Nguyên tăng tốc, hướng thẳng vào sâu trong lòng sông. Những lá cờ Mông Cổ tung bay trong gió sớm, như những con rồng đang lao về phía trước.
Họ không biết rằng, phía dưới mặt nước, hàng nghìn cọc gỗ đang chờ đợi. Ngoài ra, trên hai bên bờ sông, quân Đại Việt đang nín thở theo dõi. Tất cả chờ đợi một thời khắc - khi thủy triều rút xuống.
KHI THỦY TRIỀU ĐỔI THAY
Mặt trời đã lên cao, chiếu sáng dòng sông Bạch Đằng. Đoàn thuyền Nguyên tiến sâu vào trong, đuổi theo những chiếc thuyền nhỏ của quân Đại Việt do tướng Nguyễn Khoái chỉ huy.
"Chúng chạy khá nhanh," Ô Mã Nhi nhận xét, nhưng vẫn đầy tự tin. "Nhưng không thuyền nào của chúng có thể thoát được chiến thuyền của ta."
Đột nhiên, những chiếc thuyền của quân Đại Việt dừng lại, quay mũi đối diện với đoàn thuyền Nguyên.
"Chúng đang làm gì vậy?" Phàn Tiếp ngạc nhiên.
"Có vẻ như chúng muốn đối đầu," Ô Mã Nhi cười lớn. "Thật là tốt! Các thuyền trưởng, chuẩn bị tấn công!"
Từ xa, trên thuyền chỉ huy của quân Đại Việt, tướng Nguyễn Khoái nhìn đoàn thuyền Nguyên tiến đến với ánh mắt kiên định. Ông biết mình đang dẫn dụ kẻ thù vào chính giữa bẫy.
"Thưa tướng quân, chúng đã vào trận địa chưa?" người thân cận của ông hỏi.
Nguyễn Khoái nhìn vị trí mặt trời, rồi quan sát dòng nước: "Sắp rồi. Nước triều đã bắt đầu đổi chiều. Hãy kiên nhẫn."
Trên bờ, Quốc Công Trần Hưng Đạo đang theo dõi diễn biến qua một ống nhòm thô sơ. Bên cạnh ông là Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông.
"Chúng đã vào đủ sâu chưa?" vua Trần Nhân Tông hỏi.
"Gần rồi, thưa Quan gia," Trần Hưng Đạo đáp. "Nhưng phải đưa chúng vào tận giữa rừng cọc."
"Ô Mã Nhi có vẻ tự tin quá," Thượng hoàng nhận xét.
"Mong ước được lập công đầu là điểm yếu lớn nhất của người như hắn" Trần Hưng Đạo gật đầu.
Một lúc sau, Nguyễn Khoái - vị tướng dẫn đầu đoàn thuyền nhử địch - vừa mới leo lên bờ, mồ hôi ướt đẫm.
"Chúng đã cắn câu, thưa Quốc công," Nguyễn Khoái báo cáo, hơi thở còn gấp gáp.
Hưng Đạo Vương khẽ gật đầu, quân địch giờ đây có lẽ như con cá lớn luôn nghĩ mình thông minh nhất, cho đến khi cắn phải lưỡi câu.
Thủy Triều Đổi Chiều, Vận Mệnh Đổi Thay
Giữa trưa, khi đoàn thuyền Nguyên đã tiến sâu vào trong sông, thủy triều bắt đầu rút xuống. Dần dần, những đầu cọc nhọn hoắt bắt đầu lộ ra khỏi mặt nước. Lúc này, từ hai bên bờ sông, tiếng tù và của quân Đại Việt đồng loạt vang lên, như tiếng gầm của mãnh thú vùng dậy.
Ô Mã Nhi, với đôi mắt sắc sảo, là người đầu tiên nhận biết điều gì đang xảy ra. "Đảo thuyền!" ông ta hét lên, mặt tái nhợt. "Đảo thuyền ngay! Chúng ta đã rơi vào bẫy!"
Nhưng đã quá muộn. Những chiếc thuyền to lớn của quân Nguyên không thể quay đầu kịp trong lòng sông hẹp. Khi nước rút xuống, thân thuyền bắt đầu va vào những cọc nhọn. Tiếng gỗ vỡ vang lên khắp nơi, xé toạc không gian yên tĩnh của dòng sông.


Cùng lúc đó, từ hai bên bờ sông, quân Đại Việt ùa ra như thác đổ. Thủy quân của hai vua Trần cũng tiến đến tấn công từ phía sau. Quân Nguyên bị dồn vào thế kẹt - phía trước là bẫy cọc, còn lại bốn bề là quân địch.
"Chúng ta đã bị bao vây rồi!" Phàn Tiếp, vị tướng cứng cỏi đến mấy cũng không khỏi biến sắc.
Ô Mã Nhi, với vẻ mặt cương nghị, rút thanh đao ra khỏi vỏ: "Chiến đấu đến người cuối cùng! Chiến thần Mông Cổ không biết đầu hàng là gì!"
Trên bờ, Hưng Đạo Vương ra lệnh: "Tấn công!"
Cuộc chiến diễn ra khốc liệt từ giờ mão đến giờ dậu - từ sáng sớm đến chiều tà. Dòng sông Bạch Đằng xanh biếc nay nhuốm màu đỏ thẫm của máu. Tiếng gào thét, tiếng kim loại va chạm, tiếng thuyền vỡ hòa quyện thành bản nhạc hỗn loạn của tử thần.
Một binh sĩ Đại Việt trẻ tuổi, mặt văng đầy máu địch, quyết chiến với kẻ thù đến hơi thở cuối cùng. Chưa bao giờ anh lại cảm thấy sung sức thế này, vì đã nhìn thấy chiến thắng rất gần. Trời phù hộ, tổ tiên phù trợ, lòng người hòa làm một, quyết tử cho đất nước quyết sinh.
Khi mặt trời chìm dần sau dãy núi phía tây, số phận của các bên tham chiến đã được định đoạt. Đoàn thuyền Nguyên tan tác, những chiến binh kiêu hãnh lúc trước thì nay hoặc đã là xác chết trôi sông, hoặc là tù binh trong tay quân Đại Việt.
Ô Mã Nhi, người từng tuyên bố "Chiến thần Mông Cổ không biết đầu hàng là gì", cuối cùng cũng phải quỳ gối trước các vua Trần. Bên cạnh ông ta là Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ - những viên tướng tài ba nhất của đế chế Nguyên Mông tại Đông Nam Á thời bấy giờ cũng cùng chung số phận.
Kết cục như vậy, có lẽ chăng họ đã quên mất một điều từ lúc bắt đầu trận chiến đến nay, rằng sức mạnh có thể khuất phục thực sự được thiên hạ không đến từ vũ khí hay số lượng quân, mà đến từ trí tuệ và lòng yêu nước của cả một thế hệ.
Hệ Quả Của Chiến Thắng
Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 không chỉ giúp Đại Việt đánh bại kẻ thù trước mắt mà còn gửi đi một thông điệp mạnh mẽ đến cả thế giới: Đại Việt, dù nhỏ bé, không phải là miếng mồi ngon dễ nuốt. Hơn 4 vạn quân Nguyên đã bỏ mạng, hơn 400 chiến thuyền bị phá, và quan trọng nhất, ý chí xâm lược của đế chế Nguyên Mông đã bị đập tan.
Như Trương Hán Siêu đã viết trong bài "Phú sông Bạch Đằng":
"Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói
[...]
Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối
Những tưởng gieo roi một lần
Quét sạch Nam bang bốn cõi
[...]
Trời cũng chiều người
Hung đồ hết lối!"
Thật vậy, "hung đồ hết lối" - kẻ xâm lược và là chủ nhân của nửa thế giới thời đó cuối cùng đã không còn đường nào để tiến vào mảnh đất hình chữ S này nữa.
Đó là điều kỳ diệu của trí tuệ con người - không ngừng đổi mới, không ngừng sáng tạo. Trong khi sức mạnh vũ lực có giới hạn, thì trí tuệ là vô hạn.
Có lẽ, đó chính là bài học lớn nhất mà trận Bạch Đằng năm 1288 để lại cho hậu thế. Trong cuộc chiến giữa sức mạnh và trí tuệ, cuối cùng, trí tuệ sẽ chiến thắng, như lời người xưa đã nói: "Mưu cao hơn sức". Đó cũng chính là lý do vì sao, sau hơn bảy thế kỷ, câu chuyện về những cọc gỗ trên sông Bạch Đằng vẫn được kể lại, như một biểu tượng đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.
Không chỉ trời chiều người, mà chính người đã biết cách chiều lòng trời đất, biết dùng trí tuệ để chuyển hóa thiên thời, địa lợi, nhân hòa thành sức mạnh của mình đánh bại cường địch.
Trận Bạch Đằng năm 1288 không chỉ đơn thuần là một chiến thắng quân sự mà còn là minh chứng sống động cho tầm nhìn chiến lược của Trần Hưng Đạo - người đã đúc kết tư tưởng quân sự của mình trong cuốn sách "Binh Thư Yếu Lược". Ngày nay, dù công nghệ có thay đổi với những giải pháp tối tân, trí tuệ nhân tạo hay các phương thức siêu kết nối, nhưng những nguyên lý cơ bản về chiến lược vẫn tồn tại và trường tồn mãi với thời gian.
Chiến thuật có thể biến đổi theo thời đại, nhưng mưu lược - nghệ thuật nắm bắt tâm lý đối phương, hiểu biết điểm mạnh điểm yếu của bản thân, tận dụng địa hình, thiên thời và nhân hòa - vẫn là nguyên tắc xuyên suốt trong mọi cuộc tranh luận của nhân loại. Như một dòng vương đạo bất biến, những bài học từ "Bình Thư Yếu Lược" không chỉ dừng lại ở chiến trường xưa mà còn có thể áp dụng trên thương trường hiện đại, chính trường đầy biến động, hay bất kỳ lĩnh vực nào cần đến vận dụng trí tuệ.
Khi Trần Hưng Đạo sử dụng cọc gỗ đánh thắng quân Nguyên Mông, ông đã chứng minh rằng chiến lược đúng đắn có thể tạo nên kì tích “lấy ít địch nhiều. Đó không chỉ là bài học cho chiến tranh mà còn là triết lý sống sâu sắc: trong mọi cuộc đấu tranh, người chiến thắng không nhất thiết phải là người mạnh nhất, mà là người biết vận dụng kiến thức một cách khôn ngoan nhất, biết chuyển hóa nguy nan thành cơ hội, biến nhược điểm thành ưu thế. Đó chính là kết tinh của mưu lược và binh pháp, là di sản quý giá mà "Bình Thư Yếu Lược" để lại cho hậu thế.
Nguồn tham khảo: Trận Bạch Đằng 1288
(Đoạn đối thoại trong bài do mình tưởng tượng thôi nhé ^-^)
Khuyến cáo: mọi người nên tìm hiểu kỹ thêm về sản phẩm trước khi đặt mua nhé. Bên mình đã cố gắng chọn lọc các sản phẩm chất lượng nhưng cũng không thể đảm bảo được hết và cũng tùy thuộc nhà sản xuất nữa, mong mọi người thông cảm. Nếu chưa tin tưởng thì cũng đừng quyết định mua quá sớm nhé!
Comments
Nơi Trang cập nhật các thông tin giải trí thú vị hài hước về kinh tế xanh, các giải pháp vì môi trường và sự phát triển bền vững ở Việt Nam và trên khắp thế giới